ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUANG VINH MUÔN NĂM

Mỗi năm, cứ đến ngày thành lập Đảng thì gần cả tháng trời cái loa xã trên cột điện trước nhà tui lại ra rả kể công lao của Đảng, ca ngợi sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghe ra thì cũng y xì một lối nói mấy chục năm nay, tui nghe riết thuộc lòng. Cũng có hơi chán vì chưa nghe câu đầu đã biết câu cuối nói gì, tuy vậy tui vẫn luôn thấy khoái nhứt một câu, là câu : “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm”, câu này nghe sang hơn câu tung hô của vua chúa ngày xưa nhiều tuy cũng cùng ý nghĩa. Xưa người ta tung hô vua là “thánh thượng vạn tuế”, muôn năm = vạn tuế thì đúng rồi, nhưng vua còn thua Đảng cái chữ “quang vinh”, vua thiệt là dở.

Đảng tự khen mình bằng những mỹ từ “lịch sử vẻ vang”, “mốc son chói lọi”, “thành tựu to lớn”, “thế và lực mới cho đất nước” nghe thật sướng lỗ tai. Đảng tự khen mình không mệt mỏi như vậy quả thiệt là hay, nhưng hôm nay tui mới thấy một chuyện còn hay hơn vậy nữa, là tụi học sinh cấp 2 ở chỗ tui phải mần một bài ca ngợi lịch sử 80 năm ngời sáng quang vinh của Đảng. Ha ha, vụ này chắc phải kêu bằng “nhiệm vụ chánh trị” của học sinh chăng? Tui để ý coi bọn nhỏ làm thế nào, à, tụi nó cũng biết vô tiệm net, nhờ anh Google kiếm giùm bài phát biểu của TBT Nông Đức Mạnh, in ra và photo cho mỗi đứa một tờ. Tui tưởng tụi nhỏ đem tờ đó đi nộp cho cô là xong, nào ngờ không phải vậy, tụi nó mỗi đứa cầm cái bài phát biểu đó về chép tay ra một tờ giấy khác rồi mới đem nộp, vì cô không cho nộp bản in! Thiệt là bái phục cho ai nghĩ ra cái “nhiệm vụ chánh trị” này.

Thật tự hào 80 năm đời ta có Đảng

Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm!

Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng: QUỸ VÌ NGƯỜI NGHÈO

Cứ mỗi cuối năm là ở quê tui có vụ văn nghệ “gây quỹ vì người nghèo” hay lắm nha. Là vầy, nhà nước, tức là chính quyền huyện tổ chức một đêm văn nghệ hoành tráng để lấy tiền đó làm quỹ lo cho người nghèo vào dịp Tết (chắc là vậy, nên mới gây quỹ vào cuối năm?). Đêm văn nghệ được lên kế hoạch tổ chức trước đó mấy tháng, có mời những nghệ sĩ cải lương nổi tiếng như Minh Vương, Lệ Thủy, Quế Trân…Rồi vận động các doanh nghiệp trong huyện, trong tỉnh, ngoài tỉnh (nhưng có dây mơ rễ má với tỉnh nhà) làm nhà tài trợ, vân vân…

Càng gần tới ngày đã định thì không khí càng náo nức vì mỗi sáng mỗi chiều các loa phát thanh trên cột điện đều đặn nhắc nhở đến sự kiện đêm văn nghệ gây quỹ vì người nghèo, đọc danh sách các nhà hảo tâm đóng góp cho quỹ, một danh sách dài dằng dặc. Danh sách đó ngoài các doanh nghiệp lớn là nhà tài trợ chính thì ôi thôi, đầy đủ hết các “doanh nghiệp” trong huyện nhà, từ tiệm cầm đồ cho tới quán nhậu. Chưa hết, sau doanh nghiệp thì tới các “cán bộ công nhân viên” của các cơ quan đơn vị trong huyện, thí dụ “ cán bộ giáo viên trường PTCS A đóng góp x đồng” không sót một trường nào, một đơn vị hành chánh nào. Rồi còn nữa, hết các đơn vị nhà nước thì tới phiên “cán bộ và nhân dân xã B đóng góp y đồng” cũng không sót xã nào. Cuối cùng túm lại số tiền là 5 tỉ 700 triệu lẻ mấy trăm ngàn gì đó.

Những người không ở trong cuộc chắc sẽ ngạc nhiên vì tinh thần “vì người nghèo” của “cán bộ và nhân dân” ở huyện tui sao mà cao ngất trời như vậy, Chủ trương của nhà nước được nhân dân đồng tình ủng hộ hết mình, thật là ơn Đảng ơn Nhà nước chăm lo cho người nghèo, cảm động quá đi mất!

Cái sự “tự nguyện đồng tình ủng hộ chủ trương đường lối chính sách sáng suốt của Đảng và Nhà nước” nó là như thế này. Nếu bạn là viên chức nhà nước thì quá khỏe, ở trên “bổ” xuống mỗi người tự nguyện đóng góp 100.000đ, tới tháng trừ lương. Đối với quan thì trăm ngàn không đáng là bao, nhưng với viên chức quèn hoặc giáo viên (môn không dạy thêm) lương chưa tới hai triệu thì thiệt là ép người quá sát! Nếu bạn là “doanh nghiệp”, thì sẽ có người đem “thư mời” đến nhà “mời” bạn ủng hộ, mà ủng hộ ít quá thì coi hổng được nghen, bạn sẽ được động viên để nâng tinh thần lá lành đùm lá rách lên cao cao một chút, ít lắm cũng 200.000 trở lên. Nếu bạn chỉ là “nhân dân” thì ông Trưởng ban ấp sẽ đem vé đến nhà mời mua, tệ lắm cũng phải mua hai cặp vé, vì mỗi ấp đều được giao “chỉ tiêu” bao nhiêu vé đó, đẩy không hết là trưởng ban ấp phải lãnh nên ổng ráng mà lo đẩy. Một cặp vé giá cũng “thường”, có 70.000 đồng thôi hà, bằng giá của một giạ lúa chứ đâu có nhiều. Năm ngoái tui được mời mua vé theo diện “nhân dân”, phải mua hai cặp vé. Năm nay thì được phát thư mời, tốn tiền nhiều hơn nhưng thư mời thì chỉ tương đương một cặp vé thôi.

Xong khoản phát vé mời và mời mua vé thì sẽ tới lúc “cán bộ và nhân dân” được đi xem văn nghệ. Thử tưởng tượng xem cả huyện như vậy, nhân dân mua vé ủng hộ nhiều như vậy, thư mời phát cho doanh nghiệp nhiều như vậy thì đêm văn nghệ hoành tráng tới cỡ nào. Sân khấu dựng trong sân vận động, ngoài vài hàng ghế dành cho quan chức và các nhà tài trợ bự, còn lại tất cả mọi người khác muốn ngồi đâu đứng đâu thì tùy.

“Nhân dân” rất háo hức coi văn nghệ vì có các nghệ sĩ cải lương thần tượng của họ nhưng Minh Vương và Lệ Thủy chỉ ca chung một bài vọng cổ … rồi lên xe hồi cố quận, nhường sân khấu lại cho các ca sĩ nhạc trẻ mà tên nghe lạ hoắc lạ huơ, làm bà con thất vọng quá chừng. Tui thì năm nào cũng đưa vé cho em cháu đi coi còn mình thì ngồi nhà coi truyền hình trực tiếp, vừa khỏe mà lại còn thấy rõ hơn là đứng chen chúc trong sân vận động. Tới sáng hôm sau đi chợ còn nghe bà con bàn tán rôm rả chuyện xem văn nghệ tối qua, đủ hết hỉ nộ ái ố, bàn tới mấy ngày mới hết.

Cuối cùng thì buổi diễn văn nghệ gây quỹ vì người nghèo cũng thành công tốt đẹp, chủ trương đường lối chính sách sáng suốt của Đảng và nhà nước đã được toàn thể cán bộ và nhân dân đồng tình ủng hộ, thực hiện cái việc rất cao cả là góp tiền để lo cho người nghèo. Người nghèo được chăm lo như thế nào, có hiệu quả không, hết bao nhiêu tiền… thì là chuyện không nói ra nên không ai biết, mà chỉ có thể suy đoán thôi.

Rồi Tết tới, mỗi hộ nghèo sẽ được một phần quà nho nhỏ, ti vi sẽ đưa tin, chiếu cảnh người nghèo nhận quà mà rưng rưng cảm động, nghẹn ngào cám ơn Đảng và nhà nước quan tâm. Bản báo cáo thành tích của Đảng bộ và chính quyền sẽ dài thêm vài trang nữa, cuộc sống cứ thế trôi, và ai ai cũng đều vui vẻ!

Năm 2009: nông dân nhìn lại

Năm 2009 trôi qua với vô số sự kiện đáng quan tâm, đáng suy ngẫm. Là một người nông dân, tui thấy gì khi nhìn lại năm 2009?

1) Năm 2009 là năm xuất khẩu gạo đạt kỷ lục cao nhất từ trước tới nay, trên 6 triệu tấn, thu về hơn 2,4 tỉ USD

http://www.sggp.org.vn/thitruongkt/2009/12/213480/

Tuy lượng gạo xuất khẩu cao, được giá nhưng nông dân không được hưởng lợi nhiều, mà là các tầng nấc trung gian và chủ yếu là các công ty xuất khẩu vớ được “siêu lợi nhuận”. Vì vậy, tuy còng lưng làm ra lúa gạo, để sản lượng gạo xuất khẩu đạt kỷ lục nhưng nông dân nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong những con số tăng trưởng đẹp đẽ không có phần của nông dân, còn khi khủng hoảng kinh tế, lạm phát… thì nông dân lãnh đủ trước nhất (vì nghèo!)

GẠO TĂNG GIÁ, DN XUẤT KHẨU HƯỞNG SIÊU LỢI http://tintucthuongmai.vn/?url=detail&id=6529

Doanh nghiệp được lợi, nông dân chờ mùa sau

http://www.sgtt.com.vn/detail41.aspx?newsid=60739&fld=HTMG/2009/1215/60739

Nông dân có được lợi http://www.thuongmai.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=20408:nong-dan-co-c-li&catid=98:tin-tc&Itemid=472

2) Bộ NN&PTNT đưa ra dự thảo Nghị định xử phạt hành chính trong sản xuất kinh doanh phân bón, trong đó có điều khoản xử phạt nông dân nếu mua nhầm và sử dụng phân bón giả (!). Bị dư luận phản đối quá xá, hình như nghị định đó đã chìm xuồng thì phải.

http://vneconomy.vn/20090807082625932P0C19/dung-phan-bon-gia-bi-phat-vo-tinh-su-dung-thi-van-cham-chuoc-duoc.htm

Hiện nay phân bón giả vẫn tràn ngập, vẫn làm nông dân điêu đứng, không biết chừng nào các cơ quan chức năng mới giải quyết được.

3) Xuất khẩu thủy sản cả năm ước đạt 4,3 tỉ USD, Tỷ trọng trong xuất khẩu thủy sản: cá tra và cá basa chiếm 50,4% về lượng và 32,7% về giá trị; tôm chiếm 15,9% về khối lượng và 36,9% về giá trị; cá ngừ chiếm 4,4% về lượng và 4,0% về giá trị; mực và bạch tuộc chiếm 6,7% về lượng và 6,8% về giá trị, còn lại là các thủy sản khác.

http://www.infotv.vn/xuat-nhap-khau/tin-tuc/40400-xuat-khau-thuy-san-mot-nam-nhin-lai

http://vneconomy.vn/20091103100943174P0C10/xuat-khau-thuy-san-nam-2009-co-the-dat-44-ty-usd.htm

Tuy số lượng và giá trị xuất khẩu cá tra và ba sa chiếm tỉ lệ cao nhưng người nông dân nuôi cá vẫn sống dở chết dở trong năm 2009 : lây lất, thua lỗ và phá sản:

http://www.khoahocchonhanong.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=6802

http://vneconomy.vn/2009082402058550P0C10/go-kho-cho-nuoi-che-bien-ca-tra.htm

http://www.afa.vn/ViewContent.aspx?CatID=6&ID=1903

Câu hỏi đặt ra là : xuất khẩu cá lời chứ đâu có lỗ, vậy sao nông dân , nhân vật chính làm ra sản phẩm phải chịu lỗ tới nỗi phá sản? Ai đã bóc lột người nuôi cá?

Xem ra là nông dân trồng lúa còn có thể tự an ủi rằng mình khổ nhưng người nuôi cá còn khổ hơn cả mình nữa kìa. Thật là Ơn Đảng!

4) Người chăn nuôi heo bị máng đại dịch cúm heo H1N1 từ tháng 4-2009, nhưng nhờ Tổ chức Y Tế Thế giới WHO cứu một một bàn thua trông thấy, bằng cách đổi tên cúm heo thành cúm H1N1. Nếu không đổi tên, người tiêu dùng nghe “cúm heo” sẽ tẩy chay thịt heo là ngành chăn nuôi heo đi đứt! hoan hô WHO.

5) Giá thức ăn chăn nuôi tăng cao trong tháng cuối năm do hai nguyên nhân:

Tỷ giá đô /đồng tăng, mà nguyên liệu thức ăn chăn nuôi 60% là nhập khẩu.

Bộ Tài  chính mới ra thông tư 216 tăng thuế nhập khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc vào đầu năm 2010

Như vậy năm 2010 sẽ là năm khó khăn cho người chăn nuôi gia súc gia cầm, cá, tôm… vì chăn nuôi là không tránh khỏi sử dụng thức ăn ngoại nhâp!

http://www.sgtt.com.vn/detail41.aspx?newsid=61029&fld=HTMG/2009/1223/61029

http://vneconomy.vn/20091227094652668P0C19/gia-thuc-an-chan-nuoi-nhay-mua.htm

6) Trước tình trạng đất lúa bị “thu hồi” vô tội vạ để làm khu công nghiệp, khu dân cư, sân golf…. bộ NN-PTNT đã soạn thảo một nghị định về quản lý đất trồng lúa nước trong giai đoạn mới. Trong đó, một trong những nội dung hiện đang được nhiều người dân quan tâm là giá đền bù đất trồng lúa màu mỡ sẽ cao gấp 2 lần giá đất thổ cư ở cùng thời điểm.

http://www.sggp.org.vn/xahoi/2009/7/197480/

Không biết nghị định có ngăn chặn tình trạng mất đất lúa hay không, vì đất vẫn cứ là “miếng bánh” béo bở, không phải của nông dân mà là “sở hữu toàn dân”, tha hồ cho các “đầy tớ” của dân tự tung tự tác chia chác, xà xẻo. Nhưng hãy cứ hy vọng!

7) Vấn đề biến đổi khí hậu hình như đã được Đảng “đỉnh cao trí tuệ” quan tâm hơn nhiều, nhưng nông dân mới chỉ là “nghe nói” trên các phương tiện truyền thông, còn hành động thật sự thì không biết thế nào. ĐBSCL là một trong những nơi bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất trên thế giới .

Năm 2009 có hai cơn bão đổ vào miền Trung, gây lũ lụt không phải do bão mà do các nhà máy thủy điện xả lũ khi đang bão mà rừng thì không còn để giữ nước. Dân nghèo, nhất là nông dân lại bị lãnh đủ!

Những việc như đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu như thế nào thì nông dân chỉ biết trông chờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của “Đảng quang vinh” mà thôi chứ tự bản thân họ không thể làm gì hơn.

8) Năm 2009: năm của các siêu xe về VN, 1,17 tỉ USD để nhập ô tô nguyên chiếc.

Chuyện siêu xe này có vẻ không liên quan tới nông dân cho lắm, nhưng có một điểm chung có thể “kết nối” hai vấn đề, đó là USD. Cả năm xuất khẩu hơn 6 triệu tấn gạo, thu về 2,4 tỉ USD, chi ra 1,17 tỉ  USD mua xe sang, tương đương chừng 3 triệu tấn gạo! Nhưng người làm ra gạo thì có nằm mơ suốt đời cũng không mua nổi một cái bánh xe! Thôi đừng mơ xe làm chi, cứ nghe ra rả trên loa xã hàng ngày: một xã hội công bằng dân chủ văn minh cũng đủ sướng rồi!

http://thitruongvietnam.com.vn/gpmaster.gp-media.thi-truong-viet-nam.gplist.14.gpopen.6308.gpside.1.nam-cua-cac-sieu-xe-ve-viet-nam.asmx

http://tintuc.xalo.vn/001177731192/nam_2009_1_17_ty_usd_de_nhap_oto_nguyen_chiec.html

9) Chuyện học phí tăng, học sinh bỏ học vẫn là chuyện dài chưa có hồi kết trong năm 2009. Vì là thành phần nghèo nhất nên con em nông dân bỏ học nhiều nhất, thất học nhiều nhất. Bao năm qua vẫn vậy và có lẽ bao năm tới vẫn sẽ như vậy?

Tóm lại, đã 35 năm trôi qua từ ngày độc lập, thống nhất đất nước, 24 năm từ ngày đổi mới “đất nước đạt những thành tựu vượt bậc”, và bước vào thiên niên kỷ mới được 10 năm, nhưng xem ra tiền đồ của nông dân ngày nay không hơn gì tiền đồ của chị Dậu năm xưa: cũng sẽ càng nghèo đói, càng thất học và càng bị bóc lột, bị đặt qua bên lề sự phát triển . Cố nhìn bằng con mắt “lạc quan cách mạng” cũng không thấy một tia hy vọng nào cho giai cấp nông dân. Thật buồn cho giai cấp nòng cốt của cách mạng vô sản, và cũng thật buồn cho bản thân tui sinh ra trong giai cấp lao động quang vinh ấy!


Chồng gần không lấy để lấy chồng xa

Thằng Tuấn là cháu kêu tui bằng mợ. Nó làm việc cho gia đình tui từ hồi nó mới 20 tuổi, tới nay cũng 7-8 năm rồi. Ở quê, các bậc cha mẹ hay dựng vợ gả chồng sớm cho con cái, để  con có vợ có chồng rồi thì “nó lo mần ăn” , nên người thì cha mẹ mới yên tâm. Má thằng Tuấn cũng vậy, gần 10 năm nay bà cứ lo kiếm vợ cho nó mà không xong, đi coi chỗ nào người ta cũng từ chối. Nhà thằng Tuấn nghèo, không có đất cát gì, ba má nó chỉ đi làm mướn. Ba nó mất sớm, chị em nó lớn lên lại đi làm mướn. Mặt mũi thằng Tuấn sáng láng dễ coi, tánh tình thì hiền lành chơn chất, làm việc thì siêng năng chịu khó, không bê tha rượu chè hay cờ bạc, vậy mà không lấy được vợ. Tui hỏi nó thì nó nói:

–         Mợ ơi, con gái gia đình khá giả thì mình vói hổng tới, nếu nó có thương mình thì ba má nó cũng chê mình nghèo không gả. Con gái nhà nghèo xứng với mình thì nó cũng chê mình nghèo không ưng, nó mộng lấy chồng Đài Loan không hà mợ.

Cái chuyện con gái xứ tui ham lấy chồng Đài Loan không phải là chuyện mới lạ gì. Đã nhiều người (báo chí) đánh giá các cô hời hợt, thiếu suy nghĩ, vì ham đua đòi vật chất mà đem mình ra làm một món hàng. Chê các cô dốt, thiếu thông tin, tưởng bở rằng sang xứ người một bước thành người giàu. Tui thì không nghĩ như vậy, tui biết rõ các cô gái và phụ huynh họ không “tưởng bở”, họ biết lấy chồng Đài , chồng Hàn, chồng kiều hay chồng ngoại cũng rất “hên xui” nhưng họ vẫn chấp nhận nhắm mắt đưa chân. Vì sao như vậy?

Ở xứ tui và Miền Tây nói chung, trừ một số ít nông dân có nhiều ruộng đất thì có thể khá giả, còn đa số các gia đình nông dân chỉ có vài ba công ruộng, một công (1000m2) ruộng làm lúa 3 vụ , nếu không bị sâu bệnh và giá cả cao như hiện nay (5500đ/kg) thì một năm thu nhập khoảng 5 triệu. Nếu một gia đình năm người (thường là đông người hơn), có năm công ruộng, thì trung bình mỗi người chỉ được hơn 400.000 đồng mỗi tháng! Mà nhà có năm công ruộng đã là “có của” rồi đó! Vô sản, “không cục đất chọi chim” như gia đình thằng Tuấn, chỉ toàn đi làm mướn thì càng thê thảm hơn nhiều, vì đi làm mướn không phải ngày nào cũng có việc, nên chuyện bữa đói bữa no là bình thường, bịnh không có tiền uống thuốc, đừng có mong chi tới chuyện cho con cái “đi học thành tài”.

Con nông dân cũng có một số học hành cao, có việc làm, thành công, nhưng đó chỉ là số ít những người có khả năng vượt trội hơn người khác và có chí. Một số người cho con học hết phổ thông, thậm chí học xong đại học của tỉnh vẫn không kiếm nổi việc làm. Xin làm giáo viên hoặc làm công chức thì không có tiền hoặc không quen biết thì vô phương. (Chuyện này ai cũng biết là chuyện gì, đừng kêu tui chứng minh nghen)

Số đông những người nông dân bình thường khác thì lẩn quẩn trong cái vòng nghèo-thất học-lại nghèo hơn. Có nhiều gia đình muốn cho con em đi học nghề để làm thợ nhưng các trường gọi là dạy nghề của tỉnh chỉ dạy nghề nông nghiệp, nghề kế toán và một vài nghề khác mà khi ra trường cũng không dễ kiếm việc làm. Vậy nên tương lai con cái nông dân hiện nay thật sự bế tắc, con cái nghèo hơn cha mẹ vì đất đai ngày càng eo hẹp, nên “tiền đồ” của nông dân ngày nay không sáng sủa gì hơn “tiền đồ” của chị Dậu cách nay hơn sáu mươi năm.

Trong tình cảnh như vậy thì họ muốn có một lối thoát cũng là điều dễ hểu, nhất là khi có những “tấm gương” thoát nghèo nhờ lấy chồng ngoại, chồng kiều trước mắt. Người nông dân đói thì đầu gối phải bò, từng cá nhân họ vùng vẫy hết khả năng của họ, kẻ thành công người thất bại, họ không thể làm được nhiều hơn. Còn muốn khởi sắc cho cả một “giai cấp nông dân” nòng cốt của cách mạng thì phải có những chính sách ở tầm vĩ mô. Nhưng xem ra, nông dân đang bị gạt ra bên lề sự phát triển và không có dấu hiệu nào cho thấy họ sẽ được quan tâm hơn (ngoài những lời nói suông, hứa suông).

Vậy thì, trong khi chờ Đảng ta kiên định mò mẫm tìm đường đưa đất nước tiến lên CNXH, những chàng trai nông dân như thằng Tuấn sẽ còn ngậm ngùi ca dài dài bài ca : chồng gần sao em không lấy để lấy chồng xa. Ca hết hơi mà Đảng vẫn “định hướng XHCN”, tiền đồ của nông dân vẫn “như mực”  thì Tuấn sẽ thành trai già luôn chứ sao.

Xem thêm:

Vẫn còn nhiều học sinh bỏ học : (T Trẻ 30-11-2009)

ĐBSCL: tỉ lệ học sinh bỏ học cao nhất nước ( T Trẻ 02-01-2009)

Giáo dục ĐBSCL đang ở đâu? Bài 1: Cơ sở vật chất – Nỗi lo dai dẳng (SGGP 12-12-2008)

Phong trào học sinh bỏ học ở Đồng bằng sông Cửu Long: Bỏ rơi con chữ theo cơm áo ( LĐ 21-03-2008)

ĐBSCL: đầu tư cho giáo dục không tương xứng (T Trẻ 06-02-2007)

ĐBSCL: Học sinh bỏ học gia tăng, do đâu? ( TT 10-11-2006)

ĐBSCL: Tình trạng học sinh bỏ học gia tăng (TT 16-10-2006)

ĐBSCL: Không đến trường các em đi đâu? (TT 03-10-2005)

PHẤN KHỞI TỰ HÀO VÌ ĐƯỢC CHO VAY NỢ “ĐẠT MỨC KỶ LỤC”!


Mấy bữa nay trên các báo tràn ngập “tin vui” về việc Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ của Ngân hàng Thế giới diễn ra giữa các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam vừa kết thúc, các chủ tọa thông báo cam kết ODA cho Việt Nam 2010 đạt 8,063 tỷ USD, tăng 3 tỷ USD so với 2009 và là mức cao nhất từ trước tới nay.

CG 2009: Cam kết ODA đạt mức kỷ lục 8,063 tỷ USD

ODA dành cho Việt Nam đạt kỷ lục 8 tỷ USD
Song song đó là các tin “trấn an” như :
Nợ nước ngoài vẫn dưới mức an toàn

Đại khái là ta thiếu nợ nhưng mà xưa giờ vẫn trả nợ đàng hoàng, đúng hạn, chưa chậm trễ bao giờ, cho nên các chủ nợ rất tin tưởng “uy tín” của tavà họ rất vui vẻ cho ta mượn tiếp, vân vân và vân vân.
Tui dốt mấy vụ kinh tế vĩ mô, vi mô nhưng chuyện nợ nần thì tui rành lắm, tui biết thiếu nợ thì phải trả, mình không trả nổi thì con, cháu trả. Nếu mượn nợ về mà xài bậy bạ để mất vốn thì có khi phải “bán lúa giống” mà trả nợ ! Nếu tệ hơn nữa là phải bán nhà, bán ruộng, bán vợ đợ con chứ hổng chơi!

Tình hình tham nhũng ở mình trầm trọng thế nào thì ai cũng biết rồi. Ai biết tiền vay ODA mấy phần để phát triển, mấy phần vô túi quan tham? Ai kiểm soát được? Hay là các nhà tài trợ họ sẽ kiểm soát việc sử dụng đồng vốn của họ?

Tác giả Vũ Quang Việt (chuyên viên cao cấp, Vụ trưởng Vụ Tài khoản quốc gia của Cục Thống kê Liên hiệp quốc) có bài viết về vấn đề này như sau (từ hồi năm 2006, sau vụ PMU18)

Đừng mong vốn ODA được nước ngoài quản lý chặt hơn

Vụ ăn cắp của công tại PMU18 liên quan đến các quan chức cao cấp là một tín hiệu báo động đỏ về vấn đề trong sạch của guồng máy nhà nước, trong đó có việc dùng tiền vay nước ngoài để phát triển kinh tế.

Dù mượn cho Nhà nước chi tiêu hay mượn bằng cách bán trái phiếu để phát triển công ty thì Nhà nước cũng là người bảo lãnh, có trách nhiệm chi trả nếu như công ty không có khả năng trả.

ODA (Official Development Assistance) là vốn hỗ trợ phát triển kinh tế, không phải là tiền viện trợ mà là tiền vay nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế với điều kiện ưu đãi như lãi suất, thời gian trả dài hạn.

Lãi suất ưu đãi của tổ chức quốc tế là dựa vào Libor rate sáu tháng (lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London ) cộng thêm chừng 0,4 điểm phần trăm. Như vậy lãi suất hiện nay là khoảng 3,75%, tức là thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường.

Lãi suất ODA mượn của Chính phủ Nhật còn thấp hơn nữa, hiện dưới 1%. Ngoài chi phí trả lãi, nước mượn còn phải trả dịch vụ phí lên tới 1,1% tổng số tiền vay. Nếu phải đi vay trên thị trường trái phiếu quốc tế thì lãi suất cao hơn nhiều.

Chẳng hạn vừa qua Việt Nam bán trái phiếu 10 năm trị giá 750 triệu Đôla Mỹ để gây vốn cho Công ty Đóng tàu Vinashin thì lãi suất phải trả là 7,5%. Chi phí trả cho công ty bán trái phiếu có thể lên tới 3% tổng số tiền trái phiếu.

Như vậy, số tiền thực chất nhận về để sử dụng có thể chỉ là 340 triệu Đôla Mỹ, sau 10 năm phải trả đúng 750 triệu Đôla Mỹ.

VN hiện đang nợ nước ngoài 19 tỉ Đôla Mỹ (năm 2005). Hầu hết là tiền vay ưu đãi. Số tiền phải trả hàng năm hiện nay là 2 tỉ, và có thể tăng lên 3 tỉ sau vài năm vì thời hạn ưu đãi ba năm đầu chưa phải trả nợ.

Kế hoạch năm năm (2006-2010) tính mượn thêm 17 tỉ Đôla nữa, tức là mỗi năm mượn thêm 3,4 tỉ. Số ngoại tệ cần thêm hàng năm có thể lên đến 6,4 tỉ vừa để trả nợ cũ và mượn nợ mới.

Rất có khả năng là sau năm năm số nợ nước ngoài sẽ lên tới 32 tỉ, tăng từ 34% lên 45-50% GDP. Lúc đó nền kinh tế bắt đầu vượt ngưỡng an toàn.

Nếu tính theo kế hoạch năm năm, tổng đầu tư của nền kinh tế có thể là 120 tỉ Đôla Mỹ, đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách và do Nhà nước cho vay lại, hoặc bảo đảm) là 45 tỉ, và tính theo tỷ lệ ăn cắp của công hiện nay là 20% – mà theo Tổng cục Cảnh sát thì có thể lên tới 30% – thì số tiền thất thoát sẽ là 10 tỉ Đôla, bằng 60% số nợ mới Nhà nước định vay nước ngoài.

Như đã nói, khả năng vay ưu đãi các tổ chức quốc tế và các nước chỉ có thể xảy ra với các khoản vay mới. Số nợ cũ, nếu phải vay để trả sẽ phải dựa vào lãi suất cao hơn nhiều trên thị trường tài chính thế giới, cũng như áp lực phải trả nhanh hơn nhiều.

Việc vay tiền ODA từ các nước và các tổ chức tài chính quốc tế không bảo đảm rằng dự án sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Sẽ lầm to nếu ai đó nghĩ rằng các tổ chức quốc tế luôn theo dõi sát sao việc thực hiện dự án. Ngân hàng Thế giới đã viết rõ ràng trong Cẩm nang thực hiện dự án: “Việc theo dõi đánh giá (trong kỳ và cuối kỳ) là trách nhiệm của nhóm điều hành dự án của nước đi vay”.

Ban Kiểm tra của Ngân hàng Thế giới chỉ nhằm kiểm tra hành vi trong sạch của nhân viên ngân hàng nếu có điều tiếng. Tất nhiên tiền vay Ngân hàng Thế giới hoặc Chính phủ Nhật, thường được phép rút ra từng chặng tùy thuộc tiến độ thực hiện của dự án. Điều này chỉ giúp họ tạm ngưng hoặc ngừng hẳn giải ngân tiền cho vay nếu như họ thấy dự án không theo đúng tiến độ hoặc nghe ngóng thấy dự án có vấn đề. Thái độ sau là hạn hữu.

Kinh nghiệm theo dõi vài dự án nhỏ của tôi cho thấy là khả năng của một người đứng xa đánh giá là hết sức hạn chế vì không thể biết rõ được người thực hiện dự án có thật sự chi cho những yêu cầu ghi trong dự án.

Thí dụ việc kiểm tra chi mua giấy để in tài liệu điều tra hoặc in sách thì chỉ có thể biết được nếu như có điều tra xem xét số sách, số mẫu điều tra và sách thực in. Điều này chỉ có ban kiểm tra của nước sở tại với đầy đủ quyền kiểm tra mới có thể thực hiện được. Nếu như một cơ quan viện trợ nào đó muốn kiểm tra tới mức chi li thì lập tức họ khó tránh khỏi việc tạo ra vấn đề chính trị liên quan đến “chủ quyền” của nước sở tại.

Vấn đề kiểm tra, đánh giá công trình, vì thế, phải dựa vào cơ chế tổ chức trong sạch và có khả năng của nước sở tại.

Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn

Còn bài báo này nữa nè:

“PMU18”, nhìn từ Tokyo

TT – Trong thời đại thông tin toàn cầu này, chuyện tày đình PMU18 rồi cũng lan ra thế giới. Ngày 29-3 vừa qua, Yomiuri, nhật báo có lượng phát hành lớn nhất Nhật Bản hiện nay, đã đưa tin lớn ở trang quốc tế, trong đó, sau khi tường thuật sự kiện PMU18 đã bình luận:

“Quan chức ở các bộ tại VN lương tháng chỉ có vài trăm USD, vậy họ lấy tiền ở đâu mà nhiều vậy? Người ta nghi rằng một phần tiền ODA đã vào túi các quan chức…”.

Đọc tin này có lẽ người Nhật sẽ rất ngạc nhiên và nhớ lại trường hợp của họ khoảng 60 năm về trước. Giữa cảnh hoang tàn, đổ nát do chiến tranh gây ra, họ đã trên dưới một lòng chung sức tìm biện pháp xây dựng lại cơ sở hạ tầng, khôi phục sản xuất, ổn định xã hội.

Những nhà kinh tế, kể cả những kinh tế gia Mácxít, không phân biệt quan điểm, lập trường, đã bắt tay vào việc điều tra thực tế và tìm kiếm những chiến lược khả thi. Dựa trên kết quả đó, năm 1947, chính phủ đã công bố cuốn Sách trắng kinh tế (White Paper, phân tích thực trạng kinh tế), trong đó có một câu mà bây giờ người Nhật vẫn nhắc đến như biểu tượng của sự thành thật từ phía lãnh đạo về việc nhận định tình hình để kêu gọi toàn dân chung sức:

“Bây giờ chúng ta đang ở trong tình trạng mà nhà nước thì thâm hụt ngân sách, xí nghiệp thì làm ăn thua lỗ và nhà nhà đều thiếu ăn thiếu mặc”. Cùng với sự phân tích một cách khách quan và tích cực cho dân biết hết kết quả là phong cách làm việc vì nước quên mình của giới quan chức. Nhờ đó toàn dân tin tưởng vào nhà nước, tạo ra khí thế cả nước đồng lòng góp sức vào việc phục hưng kinh tế.

Sách trắng kinh tế cho thấy cả ba chủ thể kinh tế đều thiếu hụt thì không còn cách nào khác là phải vay mượn từ nước ngoài. Từ năm 1946 đến 1951, Nhật đã nhận viện trợ không hoàn lại từ Mỹ, số tiền này được quản lý chặt chẽ và chỉ dùng để nhập khẩu những nguyên liệu cần thiết cho sản xuất. Từ 1949-1961, Nhật vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Mỹ để dùng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và để phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu như sắt thép, xe hơi, hàng không… (thời đó đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa phổ biến).

Tuy nhiên Nhật tìm cách huy động vốn trong nước, hạn chế số tiền vay từ nước ngoài, lúc vay nhiều nhất (năm 1958) số tiền cũng chỉ chiếm có 5% tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Với tinh thần yêu nước và quyết tâm đuổi kịp các nước Âu Mỹ, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình của đội ngũ quan chức nhiều năng lực (vì được thi tuyển nghiêm túc), tinh thần doanh nghiệp và sự hăng say làm việc của mọi tầng lớp, kinh tế Nhật đã hồi phục và phát triển một cách kỳ diệu:

Năm 1955 sản xuất đã hồi phục ở mức cao nhất của thời kỳ trước chiến tranh và kinh tế bước vào giai đoạn phát triển thần kỳ. Năm 1964, Nhật trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), một tổ chức của các nước công nghiệp tiên tiến. Dĩ nhiên trong quá trình đó, Nhật đã trả hết nợ nước ngoài.

Trở lại trường hợp của nước ta. Không kể các khoản nợ của Liên Xô cũ, VN đã bắt đầu nhận viện trợ từ các tổ chức quốc tế và các nước tiên tiến từ năm 1993. Riêng trong kế hoạch năm năm vừa qua (2001-2005), ODA lên tới 7,8 tỉ USD, chiếm 12% tổng vốn đầu tư (ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài là 10,8 tỉ, chiếm 17%).

Trong kế hoạch năm năm sắp tới, Chính phủ dự kiến cần một khoản ODA lớn hơn nữa (độ 11 tỉ USD). Hầu hết ODA dùng cho đầu tư là tiền vay mượn, trong tương lai phải hoàn trả. Nếu dùng không có hiệu quả hoặc lãng phí dĩ nhiên là con cháu sau này phải gánh chịu.

Và không chỉ vấn đề trả được nợ hay không mà còn là chuyện uy tín, thể diện của Nhà nước VN trên vũ đài quốc tế. Năng lực quản lý đất nước, phẩm chất của quan chức, tinh thần tự trọng trong việc vay mượn nước ngoài… đều là những điểm mà cộng đồng quốc tế nghiêm khắc nhìn vào một nước đang tiếp nhận nhiều ODA.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy nước nào xem ODA chỉ là biện pháp giúp rút ngắn quá trình đi đến tự lập kinh tế trong tương lai thì sẽ thành công trong phát triển. Nhận thức đó phải được thể hiện nghiêm khắc trong việc quản lý ngân sách, trong việc chọn lựa dự án, và nhất là tuyển chọn nghiêm minh những người có tài, có đức phụ trách việc quản lý điều hành này.

Thế giới đang nhìn xem VN sẽ xử lý sự kiện PMU18 như thế nào.

( Tokyo , cuối tháng 3-2006)

GS-TS TRẦN VĂN THỌ

Vậy là thôi rồi, chỉ còn hy vọng các quan nhà mình nhờ “cuộc vận động học tập gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch” (mấy năm nay tốn biết bao nhiêu công của của dân) mà “bỗng dưng muốn…tốt”, tự nhiên hông thèm tham nhũng nữa. Còn không thì, chắc là cái ngày Xuống Hố Cả Nút cũng không còn xa.

Ông Ô-ba-ma ơi, zấn đề này là khó lém đóa!

Chủ tịch nước nói năng cũng đúng mức đàng hoàng, phân hóa cái … cái nội bộ :

http://www.youtube.com/watch?v=IbHnOIA4qR0&feature=player_embedded

Tui ghi lại lời vàng ngọc của ngài cho bà con coai nè:

“… Qua New Zealand thì bà thủ tướng lúc đó bả nói rằng cả cái nội các của bả là thế hệ Việt Nam. Người ta tự hào lắm, người ta nói giữa cái hội trường đông người như thế.
Sang Na-Uy thì ông thủ tướng Na-Uy ổng nói lúc tôi còn bé 13, 14 tuổi tôi đã đi quyên góp vân động để gây quỹ ủng hộ cho Việt Nam. Tôi đi theo chị tôi, anh tôi là những người lớn hơn, đấu tranh mạnh mẽ hơn, còn tôi thì chỉ làm công việc quyên góp thôi.

Tôi gặp ông tổng thống Áo thì ông tổng thống Áo nói với tôi một cách hùng hồn rằng ngày trước tôi gặp ông Mac Namara lúc ổng làm bộ trưởng quốc phòng, tôi nói rằng ông không thắng được Việt Nam đâu, nhưng mà Mắc-ra,… Ma-ra không nghe. Sau này khi Mắc-Na-Ma-Ra không còn làm bộ trưởng quốc phòng nữa thì gặp lại ổng và nói rằng lúc trước tôi không nghe ngài.

Tôi sang Hy Lạp thì ông tổng thống Hy Lạp ổng nói như những người cộng sản. Mới tháng 9 vừa rồi tôi đi dự hội nghị các nhà lãnh đạo của 15 nước hội đồng bảo an LHQ. Mình đến cuộc họp này với một cái tư thế là mạnh mẽ (chiếu tấm hình bác Triết ngồi xuống tại LHQ), mà mình là người có tiếng nói mạnh mẽ, chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế. Và ngay Đại hội đồng LHQ vừa rồi, kỳ họp sáu mươi tư (64), cũng ở diễn đàn đó mình lại lên tiếng, mình phê phán cáiviệc là cấm vận Cu-Ba. Và trong cái cuộc họp đó, ngoài những cái ý kiến chung thì tôi có thêm một cái ý kiến: tôi hoan nghênh ông Ô-Ba-Ma. Ổng tuyên bố là ổng sẽ đóng cửa nhà tù Ga-Ta Na-Mô mà. Nhưng mà tôi nói rằng ông Ô-Ba-Ma ơi, vấn đề này là khó lắm đó. Tôi chúc ông phải nỗ lực để thực hiện cho bằng được cái này. Tôi nói mà tôi nhìn Ô-Ba-Ma tôi thấy ổng ahhh, cũng chăm chú lắm, cũng lắng nghe. Như thế là mình vừa động viên Ô-Ba-Ma, nhưng mà mình vừa muốn phân hóa cái … cái nội bộ của ổng,.. ahhh,..

Như vậy đó, tôi muốn nói với các đồng chí với quý vị rằng cái vai trò, cái vị thế của mình bây giờ cũng ngang hàng với người ta, cũng nói năng cũng đúng mức đàng hoàng,…”

Chủ tịch nước lý giải vìa tham nhũng

http://www.youtube.com/watch?v=hrvAy3V5r7U&feature

Ngài noái vầy nè:

“Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có kinh nghiệm trong quản lý. Là ở nước người ta đó, thì muốn tiêu cực muốn tham nhũng cũng khó vì cái hệ thống luật phát nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham,… Cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, (bà con bắt đầu cười). Mượn thì hổng thấy ai đòi hết (và một tràng vỗ tay cười ồ,… ) thấy hông,… thì em mượn thêm. Chứ hổng phải người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới đâu,… Nói một hồi thì thấy người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới, hông phải dzậy. Cho nên tôi đề nghị quý vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng nghĩ rằng sao trong nước mình tiêu cực quá. Mà hồi xưa mấy ổng quánh giặc sao giỏi thế mà bây giờ mấy ổng tiêu cực thế (rồi cười khề khà,…). Đây là quy luật muôn đời (một tràng vỗ tay cười to). Con người ta trong mỗi người ai cũng có hỉ nộ ái ố hết trơn…. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra. Trên thế giới này ít có nơi nào có cái đó lắm á,…”.

Có ai bình lựn gì hem, chứ em thì hổng dám đâu, em còn phải …

TỈ LỆ NGƯỜI ĐÓI ĂN Ở MỸ CAO HƠN Ở VIỆT NAM

Tin trên vnexpress nói rằng tại Mỹ hiện nay có 1/6 dân số ĐÓI ĂN ( tức gần 17%, 50 triệu người)  làm tui giựt cả mình, bèn rà lại tỷ lệ nghèo của VN, ô la la năm 2006 tỷ lệ nghèo là 16%, và năm 2010 sẽ là 10%.

Mèng đéc ơi! zị là ở xứ tư bổn giãy chết đế quấc Mẽo dân chúng bị ĐÓI nghèo còn hơn cả xứ mình nghen! Đóa, zị mà dân ta cứ cố sống cố chết đi Mỹ đi Tây, đi ..tùm lum xứ để thoát khỏi cảnh nghèo! Chuyện người Việt nhập cư trái phép ở Anh,ở Pháp,ở Nga không phải là chuyện lạ, rồi phụ nữ lấy chồng Hàn, chồng Đài những mong đổi đời….

Đề nghị Đảng và Nhà Nước “tiên triền”  sâu rộng bài báo này để nhân dân ta sáng mắt ra!

Trong bài báo có nói rằng dựa vào “sự thật phơi bày trong thống kê an ninh lương thực hàng năm do Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố hồi tuần trước” nên tui cũng đưa luôn lên đây cái trang của USDA đó cho bà con nào có biết tiếng Anh coi thêm để biết tài của phóng viên VNexpress.

http://www.ers.usda.gov/Briefing/FoodSecurity/stats_graphs.htm#food_secure

Food Security in the United States: Key Statistics and Graphics

This page provides the following information:

Food secure—These households had access, at all times, to enough food for an active, healthy life for all household members.

Food insecure—At times during the year, these households were uncertain of having, or unable to acquire, enough food to meet the needs of all their members because they had insufficient money or other resources for food. Food-insecure households include those with low food security and very low food security.

Low food security—These food-insecure households obtained enough food to avoid substantially disrupting their eating patterns or reducing food intake by using a variety of coping strategies, such as eating less varied diets, participating in Federal food assistance programs, or getting emergency food from community food pantries.

Very low food security—In these food-insecure households, normal eating patterns of one or more household members were disrupted and food intake was reduced at times during the year because they had insufficient money or other resources for food. In reports prior to 2006, these households were described as “food insecure with hunger.” For a description of the change in food security labels, see “Definitions of Hunger and Food Security.”

The defining characteristic of very low food security is that, at times during the year, the food intake of household members is reduced and their normal eating patterns are disrupted because the household lacks money and other resources for food. Very low food security can be characterized in terms of the conditions that households in this category typically report in the annual food security survey. Click here for a graph of the percentage of households reporting specific conditions.

Còn đây là bài của VNexpress:

ĐÓI ĂN TẠI NƯỚC GIÀU NHẤT THẾ GIỚI

Mỹ có nhiều người béo phì hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới. Bên cạnh đó, 50 triệu người Mỹ khác, tương đương với một phần sáu dân số, đang phải vật lộn từng ngày để kiếm ăn.

Tại đất nước giàu nhất và sản xuất lương thực hàng đầu thế giới, cứ 6 người thì có một người phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực. Trong 50 triệu người đói ăn, có tới 17 triệu người (tăng so với 12 triệu năm 2007) nằm trong tình trạng báo động cao nhất. Những người này bữa no bữa đói và phải giảm đáng kể lượng thực phẩm tiêu thụ. Nạn nhân chủ yếu là người gốc da đen, gốc Tây Ban Nha và gia đình chỉ có bố hoặc mẹ.

Đó là những sự thật phơi bày trong thống kê an ninh lương thực hàng năm do Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố hồi tuần trước. Báo cáo cho thấy tình hình lương thực ở nước này đáng báo động nhất kể từ khi Bộ Nông nghiệp bắt đầu lập thống kê lần đầu tiên hồi 1945.

Bức tranh lương thực càng trở nên u ám hơn trong suy thoái do tỷ lệ thất nghiệp 10,2% hiện nay gần như gấp đôi so với đầu năm 2008. Với nhiều người Mỹ, khoảng cách giữa mất việc làm và thiếu ăn không phải là xa.

Nạn nhân chủ yếu của tình trạng đói ăn tại Mỹ là những người da đen, gốc Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha. Ảnh: wordrevolution.org

Trung tâm nghiên cứu và hành động lương thực Mỹ chỉ ra rằng tình trạng nghèo ở Mỹ có thể gây ra 2 thái cực trái ngược nhau là đói và béo phì. Điều này xuất phát từ thực tế ở Mỹ, thức ăn nhiều calo rẻ hơn thực phẩm ít calo, có lợi cho sức khỏe. Ăn quá nhiều calo trở thành một vấn đề được xã hội quan tâm hơn là suy dinh dưỡng. Do đó, tại Mỹ, đói và béo phì chỉ là hai mặt của đồng xu nghèo. Thống kê sức khỏe quốc tế cho thấy Mỹ đứng đầu về tỷ lệ người béo. Hai phần ba dân số Mỹ thừa cân, và một phần ba trong số đó béo phì.

Khi nói đến những em bé gầy giơ xương sườn, người ta nghĩ ngay đến châu Phi. Hội nghị an ninh lương thực do Liên Hợp Quốc tổ chức hồi đầu tháng tại Roma tập trung kêu gọi nước giàu viện trợ cho nước nghèo, chứ không thấy nhắc đến những người đói tại chính các quốc gia thịnh vượng nhất.

Năm tới, Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ chi ra 58,3 tỷ USD để phát tem phiếu cho người nghèo mua thực phẩm. Con số này tăng so với 54 tỷ USD trong năm 2008. Các chương trình khác như hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh nghèo cũng tăng chi từ 15 tỷ lên 16,9 tỷ USD. Chính quyền Obama xem việc chấm dứt tình trạng đói ăn ở trẻ em vào năm 2015 là một trong những ưu tiên hàng đầu, người phát ngôn của Tổng thống Mỹ Barack Obama cho biết hồi tuần trước.

Thanh Bình

Ummm! hem biết mí cái câu, chữ như “đói ăn” “vật lộn từng ngày để kiếm ăn” , “bữa no bữa đói” là bạn PV Thanh Bình dựa vào đâu để “đúc rút” thành ra như zị ha?

THẨM ĐỊNH LẠI NHỮNG Ý KIẾN TRÁI NGƯỢC NHAU TRONG VỤ ÁN TRẦN NGỌC SƯƠNG

Copy từ blog Phạm Viết Đào

Vừa qua dư luận báo chí đưa tim rầm rộ về vụ án bà Trần Ngọc Sương, nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu bị kết án về tội: Lập quỹ trái phép, bị kết án 8 năm tù; dư luận báo chí đã lan ra xã hội và làm nóng cả các cơ quan chức năng, buộc một số vị cũng đã phải vào cuộc bày tỏ chính kiến của mình như: Thủ tướng nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng, Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, một vài quan chức và một số đại biểu Quốc hội, Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…

Điều làm cho chúng tôi băn khoăn đối với các ý kiến trái chiều đó là: phần lớn đều là những ý kiến chung chung, rất không ít ý kiến có thể coi là lơ tơ mơ, “nói lồi” theo kiểu dân Nghệ, trong đó kể cả ý kiến của các luật sư. Một số ý kiến chỉ căn cứ vào luật pháp nói chung mà không căn cứ vào luật pháp hiện hành quy định về việc thu chi tài chính để làm sáng tỏ dư luận, giúp các cơ quan chức năng làm đúng phận sự mà lại kích nổ, đổ thêm lửa vào dầu, thách đố quyền lực của nhau….

Gây nên sự om xòm có một phần do bởi các phóng viên báo chí do không nắm chắc, nặng về thông tin, đưa chuyện hơn là suy xét, phán xét làm sáng tỏ vấn đề theo nguyên lý: cờ ngoài bài trong.

Tình trạng do không nắm vững, không dựa vào các cơ sở, căn cứ pháp lý chuyên ngành để tư vấn cho dư luận khá phổ biến trong lĩnh vực thông tin báo chí nước nhà. Hiện nay các báo đều có các phóng viên chuyên trách có kiến thức, bằng cấp không chỉ luật pháp mà cả kinh tế nhưng lại không làm cho vấn đề được soi tỏ…

Vấn đề đặt ra trước tiên đối với vụ án Ba Sương là bà có tội hay không có tội? Yếu tố tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt chỉ là vấn đề phụ trong vụ án này; có giảm nhẹ thì cũng chỉ giảm nhẹ 1/3 số năm bị tù theo khung hình phạt chứ không thể miễn tố, xóa án nếu có tội thật. Khi nói đến sai hay bất công thì phải căn cứ sai với cái gì, và bất công với trường hợp nào?

Điều làm cho tôi băn khoăn: Bà Trần Ngọc Sương có can tội lập quỹ trái phép không, tại sao lại phải lập quỹ trái phép khi mà những khoản chi theo như thông tin nhiều báo đã đưa Bà Sương đều có quyền  được sử dụng quỹ hợp pháp để chi theo như các quy định của Nghị định 199/2004/ND-CP ngày 3/12/2004 là thời gian bà Ba Sương đang tại nhiệm?

Theo quy định của Nghị định 199 thì Nông trường Sông Hậu là một doanh nghiệp nhà nước, do đó được phép trích quỹ phúc lợi rút từ lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Với khoản tiền mà bản án đã kết tội cho Bà Sương là đã chi sai 4,3 tỷ đồng là một khoản tiền không lớn đối với doanh thu và lợi nhuận của một doanh nghiệp như Nông trường Sông Hậu?

Một doanh nghiệp như nông trường sông Hậu, có những hợp đồng  buôn bán có khi lên tới hàng trăm triệu USD thì quỹ phúc lợi phải lên đến hàng chục tỷ đồng, như vậy nguồn chi cho phúc lợi của bà Ba Sương là rất lớn, là dồi dào, cần gì phải thêm quỹ trái phép? Hay là bà Ba Sương đã chi hết quỹ phúc lợi rồi còn cho lập thêm khoản  quỹ khác để chi?

Đây là vấn đề các cơ quan tố tụng, các luật sư và cả bà Ba Sương phải căn cứ vào các quy định của Nghị định 199 để xem xét có tội hay không tội, có lập quỹ trái phép hay được phép?

Tại mục 4 của Điều 28 Nghị định 199 quy định về Quỹ phúc lợi được dùng để:

a) Đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa các công trình phúc lợi của công ty;

b) Chi cho các hoạt động phúc lợi công cộng của tập thể công nhân viên công ty, phúc lợi xã hội;

c) Góp một phần vốn để đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng;

d) Ngoài ra có thể sử dụng một phần quỹ phúc lợi để trợ cấp khó khăn đột xuất cho những người lao động kể cả những trường hợp về hưu, về mất sức, lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, hoặc làm công tác từ thiện xã hội.

Việc sử dụng quỹ phúc lợi do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (đối với công ty không có Hội đồng quản trị) quyết định sau khi tham khảo ý kiến của công đoàn công ty.

5. Quỹ thưởng Ban điều hành công ty được sử dụng để thưởng cho Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc công ty. Mức thưởng do đại diện chủ sở hữu quyết định gắn với hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc công ty đối với công ty không có Hội đồng quản trị.

6. Việc sử dụng các quỹ nói trên phải thực hiện công khai theo quy chế công khai tài chính, quy chế dân chủ ở cơ sở và quy định của Nhà nước.

7. Công ty chỉ được chi các quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ thưởng Ban quản lý điều hành công ty sau khi thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.

Như vậy các khoản chi của Nông trường Sông Hậu là có nguồn chi hợp pháp, chả nhẽ được phép lập nguồn và được phép lập quỹ để chi thế mà bà Ba Sương và bộ máy kế toán ở đây lại: đường quan không đi lại quàng vô bụi rậm;

Theo quy định tại điều 23 của Nghị định 199, bà Ba Sương còn được phép đưa vào Chi phí hoạt động kinh doanh các khoản chi sau đây được quy định tại mục: d) Kinh phí bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế cho người lao động mà công ty phải nộp theo quy định và mục đ) Chi phí giao dịch, môi giới, tiếp khách, tiếp thị, xúc tiến thương mại, quảng cáo, hội họp tính theo chi phí thực tế phát sinh.

Một vấn đề đặt ra ở đây là: Tại sao Nông trường Sông Hậu và bà Ba Sương đều được phong anh hùng lao động thời đổi mới khi đang tại nhiệm; trong bất kỳ một bộ hồ sơ đề nghị phong anh hùng đối với các doanh nghiệp, các doanh nhân bao giờ cũng có sự xác nhận về sự lành mạnh hoạt động tài chính của bản thân người anh hùng và đơn vị anh hùng của các cơ quan chức năng tài chính?

Vậy nếu căn cứ pháp luật hiện hành truy cứu trách nhiệm hình sự bà Ba Sương can tội lập quỹ trái phép để chi sai nguyên tắc trong thời kỳ đang tại nhiệm, chứ không phải sau khi đã được phong anh hùng, điều này có nghĩa: việc phong anh hùng trước kia là sai, chứ không thể nói là bắn đại bác vào quá khứ; những cá nhân liên quan tới việc phong này đều phải truy cứu trách nhiệm hình sự vì đã lập nên một bản thành tích ảo, lừa nhà nước trong việc phong tặng này ?

Ngược lại nếu việc phong tặng anh hùng là xứng đáng thì việc kết án bà Trần Ngọc Sương là lệch chuẩn chế độ, là trái pháp luật? Không thể nói: Việc phong anh hùng không sai và việc kết án bà Trần Ngọc Sương cũng là đúng pháp luật được ! Ở đây các cơ quan chức năng chỉ được phép lựa chọn 1 trong hai đáp án kể trên ?!

Ông Nguyễn Tấn Quyên- Bí thư tỉnh ủy T.P Cần Thơ và ông Huỳnh Văn Tiếp. Ảnh: Cao Nhật

Mới đây, các cơ quan công tố thành phố Cần Thơ khởi tố thêm tội danh tham ô tài sản quy định tại Điều 278 của Bộ luật hình sự đối với bà Trần Ngọc Sương: có hành vi lấy tiền nông trường sử dụng cá nhân trên 1,1 tỷ đồng, gồm 301 triệu đồng mua đất ở Sóc Trăng và 850.000.000 đồng giải quyết việc cá nhân…

Quả thật đây là những chuyện khó hiểu trong vụ án này? Chả nhẽ bà Ba Sương ấu trĩ và kém về nghiệp vụ quản lý tới mức tự mình ký chi cho mình các khoản lên tới hàng tỷ đồng lưu giữ trên sổ sách ?

Trong khi đó có những giám đốc doanh nghiệp có tài sản riêng lên tới hàng trăm tỷ đồng nhưng các cơ quan chức năng vào kiểm tra sổ sách kế toán chỉ thấy những vị này ký nhận có mỗi lương ?

Đây là một vấn đề, căn bệnh thuộc tính cơ chế? Hiện nay theo cơ chế lương thưởng hiện hành, kể cả những vị được hưởng phủ cấp trách nhiệm trên 10 phẩy cũng khó lòng có đủ tiền xây nhà, nuôi con ăn học cho ra trò? Trong thực tế thì rất nhiều Giám đốc doanh nghiệp vừa có nhà riêng lại có biệt thự sân vườn, lại gửi con ra nước ngoài, lại có nhà cho bồ nhí ? Vậy tiền ở đâu ra?

Qua vụ án bà ba Sương cho thấy không hiếm trường hợp: Còn mèo ăn vụng miếng mỡ thì bị nghiêm trị, con hổ vồ cả con bò thì vô can.

Trong trường hợp bà Ba Sương, nếu quả thật khoản tiền 4,3 tỷ kia là sai thật và vô túi của bà Ba Sương và cả khoản tiền bà bị kết về tham ô trong cáo trạng bổ sung thì đó là một khoản tiền không lớn, nếu không nói là tối thiểu phải được hưởng so với vị trí của một người đứng đầu một doanh nghiệp đang ăn nên làm ra như nông trường Sông Hậu trong bối cảnh xã hội hiện nay ?

Tất nhiên luật pháp là luật pháp, khi hẩu và vui vẻ với nhau thì không sao, khi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, sòng phẳng với nhau thì đều có cơ sở pháp lý để tống giam nhau. Đó là một thực tế sản sinh do cơ chế điều hành kinh tế của chúng ta hiện nay được mệnh danh là: cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

Vừa qua việc UBND TP Hà Nội vừa thống nhất ý kiến của Văn phòng Quốc hội, chấp thuận dự án xây 227 căn nhà phục vụ cán bộ cấp Thứ trưởng và tương đương hiện công tác trong các cơ quan của Quốc hội. Đây là một quyết định dựa vào quyền lực hành chính để ban hành chứ không theo một quy định luật pháp nào. Bởi vì theo Luật Công chức thì công chức nhà nước chỉ được hưởng lương, phụ cấp trách nhiệm và phương tiện công vụ như xe hơi chứ làm gì có quy định từ cấp thứ trưởng trở lên sẽ được cấp nhà?

Còn cho rằng hiện các doanh nghiệp cò nhà biệt thự xe hơi, để công chức cấp cao yên tâm cống hiến cho nhà nước, để mà tích cực chống tham nhũng thì cần phải được đảm bảo nhà ở đàng hoàng; cách đặt vấn đề như vậy vẫn là cách đặt vấn đề theo ” lý của người Mèo “…

Bởi vì năm 1992, Thủ tướng đã ban hành quyết định 118, chấm dứt tình trạng bao cấp nhà ở. Quyết định này cũng đưa chế độ tiền nhà ở vào tiền lương bằng các mức phụ cấp khác nhau vào rồi còn gỉ?

Nhà cho cán bộ Quốc hội cấp Thứ trưởng và tương đương được xây tại “Đơn vị ở số 3” khu đô thị mới Xuân Phương  với tổng mức đầu tư ước trên 411 tỷ đồng

Thêm một ví dụ thứ hai: Ngày 11/1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định (số 09/2008/QĐ-TTg) quy định nguyên tắc thiết kế và tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ:

“Nhà ở công vụ được thiết kế theo 3 dạng: Nhà biệt thự, nhà chung cư và nhà một tầng (căn hộ) nhiều gian. Nhà biệt thự được thiết kế theo kiểu biệt thự đơn lập hoặc song lập, tối đa không quá 3 tầng, diện tích đất khuôn viên từ 350 m2 – 500 m2.

Tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ được quy định tương ứng với từng nhóm chức danh. Ví dụ, biệt thự loại A được bố trí cho các Ủy viên Bộ Chính trị, loại B được bố trí cho các chức danh có hệ số lương khởi điểm từ 10,4 trở lên”.

Chiểu theo quy định này, khi những chủ nhân ở nhà công vụ khi miễn nhiệm thì nghiễm nhiên phải trả nhà; trong thực tế thì rất nhiều vị đã nghỉ hưu, đã quá cố nhưng con cháu vẫn tiếp tục sử dụng nhà công vụ. Trong khi đó theo Luật đất đai và các quy định hiện hành thì tiêu chuẩn đất cấp phép xây nhà cho 1 hộ ở nội thành Hà Nội không quá 120 m2.

Mai đây nếu có một vị Thủ tướng mới khác lên, chơi rắn như các cơ quan tư pháp tại thành phố Cần Thơ; ông ta sẽ lập luận rằng: Đây là nhà, đất cấp cho công vụ, bây giờ các cố đã về thế giới bên kia rồi, vậy nên miễn thôi cho các vị không phải làm công chức, công vụ nữa, xin các vị trả lại đất cho nhà nước cho thanh thản?

Nếu chơi sát ván như thế thì rất nhiều vị sẽ phải trả nhà vì đó là nhà công vụ chứ không phải là nhà riêng, tư dinh. Kể cả 227 căn hộ cấp cho các thứ trưởng kia cũng sẽ bị thu hồi vì không luật pháp nào quy định, cho phép…

Hiện theo thông tin mà tôi nắm được một số vị còn được cấp đất xây nhà trên 350 m2 để xây nhà riêng. Xin tư vấn cho các vị, khi xây nhà nên lưu giữ cẩn thận các chứng từ, hoá đơn tài chính liên quan tới các khoản chi cho làm nhà để đề phòng mai đây nhỡ có một ông Thủ tướng nào đó giở luật ra: yêu cầu trả lại đất lại đất cho nhá nước; vì đây là đất để xây nhà công vụ chứ không phải tư dinh cho con cháu quan chức to…

Do vậy, căn cứ vào luật pháp hiện hành của tại thời điểm xây nhà, nhà các vị đã xây thì Chính phủ mới sẽ thanh toán theo giá gốc có phụ thêm phần lãi suất ngân hàng? Nếu không có hoá đơn tài chính thì các vị sẽ lôi thôi nếu chiểu theo luật pháp hiện hành và cả sau này ?

Nêu hai ví dụ này để thấy trong cơ chế quản lý kinh tế xã hội của chúng ta còn tồn tại nhiều điểm cập kênh, bất cập; chính đó là khoảng trống để cho tham ô, tham nhũng và sự tác oai tác quái của quyền lực…

Qua vụ án Trần Ngọc Sương cho thấy hình như đã xuất hiện trận tuyến giữa một bên là báo chí với một số quan chức của các cơ quan trung ương và bên kia là các cơ quan quyền lực của thành phố Cần Thơ ? Vậy đất nước ta đang ở thời kỳ ” tiền Tam Quốc ” hay ” hậu Tam Quốc” đây ?

Vụ án Trần Ngọc Sương liệu có là “khối u” của cơ chế mà không sớm thì muộn, không chỗ này thì chỗ kia cũng sẽ bục vỡ ra bởi trong cơ chế này mỗi con người đôi khi vừa là nạn nhân lại đồng thời là thủ phạm…

Để kết thúc bài viết này chúng tôi xin mượn bài từ được đề tựa cho bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa để suy ngẫm về thế sự hiện nay qua vụ án Nông trường Sông Hậu:

Hậu Giang (1) cuồn cuộn chảy về đông

Sóng dập dồn đãi hết anh hùng

Được thua, phải trái thoắt về không
Non xanh nguyên vẻ cũ

Bóng độ xuống tàn hồng

Bạn đầu bạc ngư tiều ven bãi

Mảnh trăng thanh gió hát, vui chơi

Gặp nhau hồ rượu đầy vơi

Xưa nay bao nhiêu việc

Phó mặc cuộc nói cười…

P.V.Đ

1/ Trong nguyên tác là Trường Giang…

SỐNG CHẾT MẶC BÂY

Chuyện xưa:

“SỐNG CHẾT MẶC BÂY” là tựa đề một truyện ngắn của tác giả Phạm Duy Tốn, kể về một trận lũ của sông Nhị Hà hồi đầu thế kỷ thước, ở Hà Nội, gây vỡ đê, lụt lội. Truyện kể về cách thức chống lụt của “quan phụ mẫu” thời ấy. Quan “chống lụt” bằng cách ngồi nơi cao ráo, vững chắc, nước có lên thì cũng” không bị làm sao”,  và quan điềm nhiên đánh bài trong khi con dân của ngài ở bên ngoài vô vọng lo chống chọi với thiên tai.

Chuyện nay:

Hồi cuối tháng 9-2009, hồ  thủy điện A Vương (Quảng Nam) xả lũ trong cơn bão số 9 khiến cho vùng hạ lưu sông Vu Gia ngập nặng, dân không kịp trở tay, gây thiệt hại nặng về người và của

(xem thêm ở đây, ở đây, ở đâyở đây )

Đầu tháng 11-2009, bài học A Vương còn đang nóng hổi thì thủy điện sông Ba Hạ lại xả lũ trong cơn bão số 11 gây ngập lụt ở Phú Yên khiến người dân tan nhà nát cửa, hơn 100 người chết! Theo báo Tuổi Trẻ thì:

Cơn bão số 11 không nguy hiểm như bão số 9, chỉ gây mưa to trên diện rộng, nhưng thiệt hại lại nặng nề khi tính đến tối 4-11 đã có 98 người chết. Chuyện gì đã xảy ra ở Phú Yên?

Như vụ thủy điện A Vương xả lũ làm ngập Quảng Nam hồi bão số 9, hôm qua tổng giám đốc Công ty cổ phần thủy điện Sông Ba Hạ cũng thừa nhận đã xả lũ từ ngày 2-11. Điều đó đã góp phần nhấn chìm thành phố Tuy Hòa…

Tối 2-11, bất thần lũ dữ tràn về, nhanh đến mức hàng vạn người dân phía hạ lưu sông Ba ở Phú Yên chỉ kịp leo lên nóc nhà. Chuyện gì đã xảy ra? Tuổi Trẻ đã trao đổi với tổng giám đốc Công ty cổ phần thủy điện Sông Ba Hạ Võ Văn Tri. Ông Tri nói:

– Ngày 2-11, Nhà máy thủy điện Sông Ba Hạ đã xả lũ với lưu lượng 800 – 1.000m3/giây, nếu bình thường thì lưu lượng xả như thế không ảnh hưởng lắm đối với hạ lưu. Nhưng khi lũ xảy ra, mưa to, triều cường thì tất nhiên nó góp phần nâng cao đỉnh lũ.

( link ở đây, và ở đây )

Như  vậy, vụ lũ lụt lần này ở Phú Yên và hồi tháng trước ở Quảng Nam không phải là do thiên tai, mà phải gọi chính xác là NHÂN TAI – tai họa do con người gây ra. Ở đây không thể chỉ quy lỗi cho các vị giám đốc của hai nhà máy thủy điện kia đã ra lệnh xả lũ, vì các vì ấy cũng nếu  đủ lý do để làm như vậy, nếu không thì hậu quả còn nặng nề hơn! Vậy thì lỗi của ai đây. NHÂN TAI này do “NHÂN” nào gây ra? do thiếu hiểu biết (ngu dốt), thiếu tầm nhìn khi quy hoạch thủy điện? Do kém năng lực khi điều hành thủy điện? do vô trách nhiệm? do…? do…? Chuyện này chắc cũng bóng đổ thầy thầy đổ bóng, cuối cùng không ai có lỗi hết (để rồi xem).

À, không phải, lỗi là ở người dân chứ lỗi ở ai. Bây giờ là thời nào rồi, là thời đại “dân làm chủ” mà. Quan chức chỉ là “đầy tớ” của “chủ dân” thôi. Ngày xưa quan là “dân chi phụ mẫu”, là cha mẹ của dân , cha mẹ phải có trách nhiệm lo cho con cái mà không làm tròn trách nhiệm thì bị cụ Phạm Duy Tốn bêu rằng bỏ con dân SỐNG CHẾT MẶC BÂY. Thời nay dân làm chủ, chủ thì phải tự chịu trách nhiệm, chứ đầy tớ thì có biết gì. Có trách thì dân hãy tự trách mình sao không kiếm một chân đầy tớ mà làm, vừa có chỗ ngồi cao ráo vững chắc không sợ lũ cuốn, không sợ nhà trôi, tiền bạc đã có chủ lo, trách nhiệm đã có chủ gánh, thật là an nhiên sung sướng.

Đọc thêm:

Sống chết mặc bay

Phạm Duy Tốn

Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng… thuộc phủ… xem chừng núng thế lắm, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình cảnh này trông thật là thảm.
Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất!…
Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo thủ lấy tánh mạng gia tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: Ðang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Ðình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại, cùng ngồi chầu bài.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm, trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Ðiếu, mày!” tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy Ðề hỏi: “Bẩm, bốc?” tiếng quan lớn truyền “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách… Ăn”, người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…
Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất… Mọi người giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.
Có người khẽ nói:
– Bẩm, đê có khi vỡ!
Ngài cau mặt gắt rằng:
– Mặc kệ.
Rồi ngài xếp bài lại, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề lại:
– Có ăn không thì bốc chứ!
Thầy đề vội vàng:
– Dạ, bẩm bốc.
Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.
Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời:
– Bẩm… quan lớn… Ðê vỡ rồi!
Quan lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:
– Ðê vỡ rồi!… Ðê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
– Dạ, bẩm…
– Ðuổi cổ nó ra!
Ngài quay vào, hỏi thầy đề:
– Thầy bốc quân gì thế?
– Dạ, bẩm con chưa bốc.
– Thì bốc đi chứ!
Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng:
– Chi chi!
Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
– Ðây rồi!… Thế chứ lại!
Rồi ngài vội vàng xoè bài, miệng vừa cười, vừa nói:
– Ù! Thông tôm, chi chi nẩy!… Ðiếu mày!…
*
* *
Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!
(Tạp chí Nam Phong,
số 18, tháng 12 – 1918)

Nuôi chó phải đăng ký

Mấy hôm nay đọc báo thấy tin này : nuôi chó phải đăng ký, thấy có nhiều ý kiến bàn ra tán vào, mà phần bàn ra là nhiều hơn phần tán vào. Nghe tới “chó” là tui nổi máu  nghề nghiệp nêncũng ráng đi mò gúc cho được cái thông tư 48 của bộ NN & PTNT để xem nó là cái chi chi mà thu hút sự quan tâm… của người nuôi chó dữ zị.

Đọc hết cái thông tư thì cảm giác của tui là… ai rảnh quá ngồi soạn ra cái thông tư… trên trời quá mạng! Nhiều chỗ rườm rà, dư thừa không cần thiết và nhất là không khả thi. Nếu về góc độ chuyên môn mà nói cho cặn kẽ thì không thể một vài dòng mà nói hết. Điều 2 đưa nguyên một bài nói về bịnh dại đã đủ lãng nhách rồi, mà lại đưa mí cái “tiểu thể Negri”, “sừng Ammon” vô chắc để khoe kiến thức của người soạn thông tư hay sao, chứ tui thấy hông có “ghé” gì tới nội dung phòng chống bịnh dại của thông tư hết. Rồi tới điều 5, biểu người nuôi chó rằng khi thấy chó bỏ ăn SỐT CAO… thì đi trình báo cho cơ quan thú y. Đây là điểm rất sai, vì chó bịnh dại hoàn toàn KHÔNG SỐT dù ở giai đoạn nào cũng vậy!

Rồi có nhiều điều quy định về điều kiện vệ sinh khi nuôi chó mèo cũng rất là trớt quớt. Chuyện giữ vệ sinh công cộng khi nuôi chó mèo là cần thiết nhưng nên quy định trong một thông tư khác, còn thông tư về “phòng chống bịnh dại” thì không cần, vì virus dại không có trong các chất thải của con vật, cũng không có trong máu mà chỉ tập trung ở nước bọt của con vật bịnh, khi con vật cắn (hoặc liếm vào chỗ có vết thương) của người/ con vật khác thì mới lây bịnh, chứ liếm vào da lành cũng không lây bịnh được!

Còn những chỗ dư thừa của thông tư thì rất nhiều, các nhiệm vụ của các cơ quan thú y trong việc phòng, chống dịch bệnh thì đã có trong luật thú y và nhiều nghị định thông tư có liên quan khác. Nhiệm vụ của UBND tỉnh quanh đi quẩn lại chỉ là “chỉ đạo” thôi mà cũng đưa vô thông tư cho dài dòng. Chuyện cấp trên không biết mô tê ất giáp gì về chuyên môn mà cứ phải chỉ đạo là chuyện đương nhiên rồi, cần gì phải nói mới hiểu. Kiểu soạn thông tư theo cách như thế này lsẽ dẫn đến việc để phòng chống mỗi thứ binh của gia súc gia cầm là phải có một thông tư riêng, chuyên gia soạn thông tư sẽ có việc mần hoài hổng hết!

Còn cái chiện không khả thi thì… kể sao cho xiết đây. Thôi, tui kể chiện thực tế nè. Ở chỗ tui chó mà tắc tử, hoặc gần tử, thâm chí là hông có liên quan gì đến tử cũng đều được các đệ tử lưu linh chiếu cố tận tình. Ngay cả chó (cưng) tử mồ yên mả đẹp rồi cũng bị đào trộm lên nhậu tuốt luốt, vậy thì chuyện báo lên “trên” khi chó bệnh là chuyện rất khó xảy ra. Rồi chuyện đăng ký, làm sổ sách nữa, ai làm, ai quản đây? Chuyện rất cần thiết là khai sinh khai tử mà làm còn trật vuột thì chuyện chó này sao mà xã kham nổi. Chắc người soạn thông tư cũng biết là khó thực hiện ở nông thôn, nên có mấy điều vớt vát rằng : ở nông thôn không bắt chó thả rông được thì “tuyên tuyền, vận động, yêu cầu dân ..” . Thiệt tình, luật gì mà tuyên truyền zí lại vận động!

Túm lại là người soạn thông tư không biết gì về tình hình thực tế chuyện nuôi chó mèo của người dân, tình hình phòng chống bịnh dại HIỆN TẠI như thế nào. Thông tư này đưa ra sẽ không “đi vào đời sống” được, có chăng là tạo điều kiện cho một số người hoạnh họe một số người khác mà thôi. Để rồi coi các bên có liên quan sẽ thực hiện như thế nào.

Title Nội dung

Hủy

nói cách đây 7 tuần Sửa · Xóa · Đường dẫn cố định · Lời bình (17)