Mấy bữa nay trên các báo tràn ngập “tin vui” về việc Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ của Ngân hàng Thế giới diễn ra giữa các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam vừa kết thúc, các chủ tọa thông báo cam kết ODA cho Việt Nam 2010 đạt 8,063 tỷ USD, tăng 3 tỷ USD so với 2009 và là mức cao nhất từ trước tới nay.
CG 2009: Cam kết ODA đạt mức kỷ lục 8,063 tỷ USD
ODA dành cho Việt Nam đạt kỷ lục 8 tỷ USD
Song song đó là các tin “trấn an” như :
Nợ nước ngoài vẫn dưới mức an toàn
Đại khái là ta thiếu nợ nhưng mà xưa giờ vẫn trả nợ đàng hoàng, đúng hạn, chưa chậm trễ bao giờ, cho nên các chủ nợ rất tin tưởng “uy tín” của tavà họ rất vui vẻ cho ta mượn tiếp, vân vân và vân vân.
Tui dốt mấy vụ kinh tế vĩ mô, vi mô nhưng chuyện nợ nần thì tui rành lắm, tui biết thiếu nợ thì phải trả, mình không trả nổi thì con, cháu trả. Nếu mượn nợ về mà xài bậy bạ để mất vốn thì có khi phải “bán lúa giống” mà trả nợ ! Nếu tệ hơn nữa là phải bán nhà, bán ruộng, bán vợ đợ con chứ hổng chơi!
Tình hình tham nhũng ở mình trầm trọng thế nào thì ai cũng biết rồi. Ai biết tiền vay ODA mấy phần để phát triển, mấy phần vô túi quan tham? Ai kiểm soát được? Hay là các nhà tài trợ họ sẽ kiểm soát việc sử dụng đồng vốn của họ?
Tác giả Vũ Quang Việt (chuyên viên cao cấp, Vụ trưởng Vụ Tài khoản quốc gia của Cục Thống kê Liên hiệp quốc) có bài viết về vấn đề này như sau (từ hồi năm 2006, sau vụ PMU18)
Đừng mong vốn ODA được nước ngoài quản lý chặt hơn
Vụ ăn cắp của công tại PMU18 liên quan đến các quan chức cao cấp là một tín hiệu báo động đỏ về vấn đề trong sạch của guồng máy nhà nước, trong đó có việc dùng tiền vay nước ngoài để phát triển kinh tế.
Dù mượn cho Nhà nước chi tiêu hay mượn bằng cách bán trái phiếu để phát triển công ty thì Nhà nước cũng là người bảo lãnh, có trách nhiệm chi trả nếu như công ty không có khả năng trả.
ODA (Official Development Assistance) là vốn hỗ trợ phát triển kinh tế, không phải là tiền viện trợ mà là tiền vay nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế với điều kiện ưu đãi như lãi suất, thời gian trả dài hạn.
Lãi suất ưu đãi của tổ chức quốc tế là dựa vào Libor rate sáu tháng (lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London ) cộng thêm chừng 0,4 điểm phần trăm. Như vậy lãi suất hiện nay là khoảng 3,75%, tức là thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường.
Lãi suất ODA mượn của Chính phủ Nhật còn thấp hơn nữa, hiện dưới 1%. Ngoài chi phí trả lãi, nước mượn còn phải trả dịch vụ phí lên tới 1,1% tổng số tiền vay. Nếu phải đi vay trên thị trường trái phiếu quốc tế thì lãi suất cao hơn nhiều.
Chẳng hạn vừa qua Việt Nam bán trái phiếu 10 năm trị giá 750 triệu Đôla Mỹ để gây vốn cho Công ty Đóng tàu Vinashin thì lãi suất phải trả là 7,5%. Chi phí trả cho công ty bán trái phiếu có thể lên tới 3% tổng số tiền trái phiếu.
Như vậy, số tiền thực chất nhận về để sử dụng có thể chỉ là 340 triệu Đôla Mỹ, sau 10 năm phải trả đúng 750 triệu Đôla Mỹ.
VN hiện đang nợ nước ngoài 19 tỉ Đôla Mỹ (năm 2005). Hầu hết là tiền vay ưu đãi. Số tiền phải trả hàng năm hiện nay là 2 tỉ, và có thể tăng lên 3 tỉ sau vài năm vì thời hạn ưu đãi ba năm đầu chưa phải trả nợ.
Kế hoạch năm năm (2006-2010) tính mượn thêm 17 tỉ Đôla nữa, tức là mỗi năm mượn thêm 3,4 tỉ. Số ngoại tệ cần thêm hàng năm có thể lên đến 6,4 tỉ vừa để trả nợ cũ và mượn nợ mới.
Rất có khả năng là sau năm năm số nợ nước ngoài sẽ lên tới 32 tỉ, tăng từ 34% lên 45-50% GDP. Lúc đó nền kinh tế bắt đầu vượt ngưỡng an toàn.
Nếu tính theo kế hoạch năm năm, tổng đầu tư của nền kinh tế có thể là 120 tỉ Đôla Mỹ, đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách và do Nhà nước cho vay lại, hoặc bảo đảm) là 45 tỉ, và tính theo tỷ lệ ăn cắp của công hiện nay là 20% – mà theo Tổng cục Cảnh sát thì có thể lên tới 30% – thì số tiền thất thoát sẽ là 10 tỉ Đôla, bằng 60% số nợ mới Nhà nước định vay nước ngoài.
Như đã nói, khả năng vay ưu đãi các tổ chức quốc tế và các nước chỉ có thể xảy ra với các khoản vay mới. Số nợ cũ, nếu phải vay để trả sẽ phải dựa vào lãi suất cao hơn nhiều trên thị trường tài chính thế giới, cũng như áp lực phải trả nhanh hơn nhiều.
Việc vay tiền ODA từ các nước và các tổ chức tài chính quốc tế không bảo đảm rằng dự án sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Sẽ lầm to nếu ai đó nghĩ rằng các tổ chức quốc tế luôn theo dõi sát sao việc thực hiện dự án. Ngân hàng Thế giới đã viết rõ ràng trong Cẩm nang thực hiện dự án: “Việc theo dõi đánh giá (trong kỳ và cuối kỳ) là trách nhiệm của nhóm điều hành dự án của nước đi vay”.
Ban Kiểm tra của Ngân hàng Thế giới chỉ nhằm kiểm tra hành vi trong sạch của nhân viên ngân hàng nếu có điều tiếng. Tất nhiên tiền vay Ngân hàng Thế giới hoặc Chính phủ Nhật, thường được phép rút ra từng chặng tùy thuộc tiến độ thực hiện của dự án. Điều này chỉ giúp họ tạm ngưng hoặc ngừng hẳn giải ngân tiền cho vay nếu như họ thấy dự án không theo đúng tiến độ hoặc nghe ngóng thấy dự án có vấn đề. Thái độ sau là hạn hữu.
Kinh nghiệm theo dõi vài dự án nhỏ của tôi cho thấy là khả năng của một người đứng xa đánh giá là hết sức hạn chế vì không thể biết rõ được người thực hiện dự án có thật sự chi cho những yêu cầu ghi trong dự án.
Thí dụ việc kiểm tra chi mua giấy để in tài liệu điều tra hoặc in sách thì chỉ có thể biết được nếu như có điều tra xem xét số sách, số mẫu điều tra và sách thực in. Điều này chỉ có ban kiểm tra của nước sở tại với đầy đủ quyền kiểm tra mới có thể thực hiện được. Nếu như một cơ quan viện trợ nào đó muốn kiểm tra tới mức chi li thì lập tức họ khó tránh khỏi việc tạo ra vấn đề chính trị liên quan đến “chủ quyền” của nước sở tại.
Vấn đề kiểm tra, đánh giá công trình, vì thế, phải dựa vào cơ chế tổ chức trong sạch và có khả năng của nước sở tại.
Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn
Còn bài báo này nữa nè:
TT – Trong thời đại thông tin toàn cầu này, chuyện tày đình PMU18 rồi cũng lan ra thế giới. Ngày 29-3 vừa qua, Yomiuri, nhật báo có lượng phát hành lớn nhất Nhật Bản hiện nay, đã đưa tin lớn ở trang quốc tế, trong đó, sau khi tường thuật sự kiện PMU18 đã bình luận:
“Quan chức ở các bộ tại VN lương tháng chỉ có vài trăm USD, vậy họ lấy tiền ở đâu mà nhiều vậy? Người ta nghi rằng một phần tiền ODA đã vào túi các quan chức…”.
Đọc tin này có lẽ người Nhật sẽ rất ngạc nhiên và nhớ lại trường hợp của họ khoảng 60 năm về trước. Giữa cảnh hoang tàn, đổ nát do chiến tranh gây ra, họ đã trên dưới một lòng chung sức tìm biện pháp xây dựng lại cơ sở hạ tầng, khôi phục sản xuất, ổn định xã hội.
Những nhà kinh tế, kể cả những kinh tế gia Mácxít, không phân biệt quan điểm, lập trường, đã bắt tay vào việc điều tra thực tế và tìm kiếm những chiến lược khả thi. Dựa trên kết quả đó, năm 1947, chính phủ đã công bố cuốn Sách trắng kinh tế (White Paper, phân tích thực trạng kinh tế), trong đó có một câu mà bây giờ người Nhật vẫn nhắc đến như biểu tượng của sự thành thật từ phía lãnh đạo về việc nhận định tình hình để kêu gọi toàn dân chung sức:
“Bây giờ chúng ta đang ở trong tình trạng mà nhà nước thì thâm hụt ngân sách, xí nghiệp thì làm ăn thua lỗ và nhà nhà đều thiếu ăn thiếu mặc”. Cùng với sự phân tích một cách khách quan và tích cực cho dân biết hết kết quả là phong cách làm việc vì nước quên mình của giới quan chức. Nhờ đó toàn dân tin tưởng vào nhà nước, tạo ra khí thế cả nước đồng lòng góp sức vào việc phục hưng kinh tế.
Sách trắng kinh tế cho thấy cả ba chủ thể kinh tế đều thiếu hụt thì không còn cách nào khác là phải vay mượn từ nước ngoài. Từ năm 1946 đến 1951, Nhật đã nhận viện trợ không hoàn lại từ Mỹ, số tiền này được quản lý chặt chẽ và chỉ dùng để nhập khẩu những nguyên liệu cần thiết cho sản xuất. Từ 1949-1961, Nhật vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Mỹ để dùng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và để phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu như sắt thép, xe hơi, hàng không… (thời đó đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa phổ biến).
Tuy nhiên Nhật tìm cách huy động vốn trong nước, hạn chế số tiền vay từ nước ngoài, lúc vay nhiều nhất (năm 1958) số tiền cũng chỉ chiếm có 5% tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Với tinh thần yêu nước và quyết tâm đuổi kịp các nước Âu Mỹ, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình của đội ngũ quan chức nhiều năng lực (vì được thi tuyển nghiêm túc), tinh thần doanh nghiệp và sự hăng say làm việc của mọi tầng lớp, kinh tế Nhật đã hồi phục và phát triển một cách kỳ diệu:
Năm 1955 sản xuất đã hồi phục ở mức cao nhất của thời kỳ trước chiến tranh và kinh tế bước vào giai đoạn phát triển thần kỳ. Năm 1964, Nhật trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), một tổ chức của các nước công nghiệp tiên tiến. Dĩ nhiên trong quá trình đó, Nhật đã trả hết nợ nước ngoài.
Trở lại trường hợp của nước ta. Không kể các khoản nợ của Liên Xô cũ, VN đã bắt đầu nhận viện trợ từ các tổ chức quốc tế và các nước tiên tiến từ năm 1993. Riêng trong kế hoạch năm năm vừa qua (2001-2005), ODA lên tới 7,8 tỉ USD, chiếm 12% tổng vốn đầu tư (ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài là 10,8 tỉ, chiếm 17%).
Trong kế hoạch năm năm sắp tới, Chính phủ dự kiến cần một khoản ODA lớn hơn nữa (độ 11 tỉ USD). Hầu hết ODA dùng cho đầu tư là tiền vay mượn, trong tương lai phải hoàn trả. Nếu dùng không có hiệu quả hoặc lãng phí dĩ nhiên là con cháu sau này phải gánh chịu.
Và không chỉ vấn đề trả được nợ hay không mà còn là chuyện uy tín, thể diện của Nhà nước VN trên vũ đài quốc tế. Năng lực quản lý đất nước, phẩm chất của quan chức, tinh thần tự trọng trong việc vay mượn nước ngoài… đều là những điểm mà cộng đồng quốc tế nghiêm khắc nhìn vào một nước đang tiếp nhận nhiều ODA.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy nước nào xem ODA chỉ là biện pháp giúp rút ngắn quá trình đi đến tự lập kinh tế trong tương lai thì sẽ thành công trong phát triển. Nhận thức đó phải được thể hiện nghiêm khắc trong việc quản lý ngân sách, trong việc chọn lựa dự án, và nhất là tuyển chọn nghiêm minh những người có tài, có đức phụ trách việc quản lý điều hành này.
Thế giới đang nhìn xem VN sẽ xử lý sự kiện PMU18 như thế nào.
( Tokyo , cuối tháng 3-2006)
GS-TS TRẦN VĂN THỌ
Vậy là thôi rồi, chỉ còn hy vọng các quan nhà mình nhờ “cuộc vận động học tập gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch” (mấy năm nay tốn biết bao nhiêu công của của dân) mà “bỗng dưng muốn…tốt”, tự nhiên hông thèm tham nhũng nữa. Còn không thì, chắc là cái ngày Xuống Hố Cả Nút cũng không còn xa.